Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ

Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271, 0975.865463 Email : thienmy.thich@gmail.com

Friday, March 2, 2007

Đâu Là Các Nguồn Sản Xuất Điện Lực Cho Hoa Kỳ, Khi Giá Dầu Lên Quá Cao?



Khoa Học: Đâu Là Các Nguồn Sản Xuất Điện Lực Cho Hoa Kỳ, Khi Giá Dầu Lên Quá Cao?
[11/08/2006 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]

Hồng Quang theo Reader’s Digest và Time
08.08.2006

- Các chuyên gia tin là khi giá dầu đã vượt trên 65 đô la. thùng thì nền an ninh của Hoa Kỳ không còn vững như trước. Ngoài chuyện lệ thuộc quá rõ vào nguồn dầu nhập mà giá dầu cao luôn ảnh hưởng không tốt tới kinh tế Mỹ, chuyện các xứ Ả Rập nắm độc quyền thao túng nguồn dầu hỏa rõ rệt không làm Washington vui lòng rồi.

Nhưng liệu Mỹ có thể tìm được các nguồn năng lượng khác hơn là dầu hỏa? Các nghiên cứu gần đây cho thấy triển vọng về các nguồn cung cấp các loại “alternatives” (chất thay thế) cho Mỹ không phải là ít.

Sau đây là tình hình hiện nay của 6 loại thay thế cho dầu hỏa đó:

1. Gió: Năng lượng gió được biến thành điện năng nhờ các turbines khổng lồ, cung cấp điện cho gia cư và các trung tâm kinh doanh. Một cái turbine như thế giá từ 250,000 đến 1 triệu đô la, tùy theo kích thước của nó. Nhưng 1 cái turbine có thể hoạt động và cung cấp điện cho trên 300 căn nhà. Cái bất tiện là không phải ngày nào cũng có gió nên người ta lại phải nhờ nguồn điện của địa phương hỗ trợ. Nhiều xứ Châu Âu đã tăng thêm điện năng nhờ gió này. Nguồn điện này được xem là “sạch” nhất, không bao giờ gây ô nhiễm cả.

2. Mặt Trời: bạn hãy quên đi cái ý tưởng đặt “một miếng kính” trên mái nhà mình. Ngày nay hệ thống điện gọi là solar- energy systems với các photovoltaics hết sức tân tiến sẽ tạo ra điện từ vầng thái dương.. Một giàn photovoltaics có giá từ 14,000 đến 20,000 đô la, nhưng chủ nhà sẽ thấy cái bill tiền điện của mình giảm kinh hồn, tùy theo mặt trời có chói chang hay không mà thôi. Cái hay của kiểu này là ngày nay nếu giàn “pin mặt trời” của nhà bạn mà có chế tạo ra điện thừa thì bạn có thể bán số điện thừa này cho công ty điện lực, và bạn sẽ còn tiết kiệm nhiều hơn nữa. Tuy nhiên vào ban đêm lúc ông Mặt Trời đi ngủ thì điện đóm “ăn theo” cũng tắt ngóm, nên lại phải dùng đến điện bình thường!

3. Ethanol: hiện nay ở Mỹ ethanol được làm từ bắp và giá thành của nó cạnh tranh ráo riết với giá dầu hỏa. Hiện loại hỗn hợp gồm 10% ethanol và 90% xăng không chì pha trộn nhau được bán ở khoảng 1. 3 số cây xăng trên khắp Hoa Kỳ. Một loại xe sử dụng nhiên liệu ethanol gọi là “flexible fuel vehicles” (FFVs) đã thấy lăn bánh trên thị trường. Chúng xài hỗn hợp nhiên liệu gồm 85% ethanol và 15% xăng không chì gọi là E 85. Cái hay là khi E 85 không có, loại xe này vẫn chạy được nhờ xăng thường. Tuy nhiên bất lợi lớn nhất là muốn sản xuất ra ethanol, người ta lại phải cần rất nhiều năng lượng, nên ethanol không thể xem là có tương lai huy hoàng được.

4. Biodiesel: được sản xuất từ các loại như đậu nành, biodiesel là loại nhiên liệu không gây độc hại, có thể được pha trộn chung với dầu diesel để làm giảm gây ô nhiễm khói xe. Hiện nay các loại xe động cơ Diesel có thể chạy bằng nhiên liệu này mà không cần sửa nhiều các chi tiết nào của động cơ. Giá thành của biodiesel khá rẻ nhưng cũng như ethanol, cần phải có nhiều năng lượng để sản xuất nó nên cũng chưa gây hào hứng lắm cho nhà đầu tư.

5. Nguyên tử: Uranium là loại kim loại tìm thấy trong đá, khi nó được dùng trong một động cơ nguyên tử thì năng lượng gọi là “thermal energy” ra đời. Mối lợi lớn nhất là năng lượng này không gây khói làm tăng thêm hiệáu ứng nhà kính và giá không đắt. Hiện nay Hoa Kỳ có 20% điện dùng của cả nước do các nhà máy nguyên tử tạo ra, nhưng hiện đã có cơ cấu hạ tầng đẩy mạnh loại nhà máy nguyên tử lên thành số lượng khổng lồ. Cái nguy lớn nhất cho nhà máy nguyên tử là là chất thảy của nó, gọi là “radioactive nuclear waste” bắt buộc phải có nơi an toàn để trữ, nếu không hậu quả sinh thái sẽ hết sức lớn lao.

6. Hydrogen: Làm sao bạn có thể tạo điện lực mà không có cái gì thảy ra hết ngoài… nước lạnh? Vậy mà các giàn pin “hydrogen fuel cells” làm được như thế. Bất lợi là khi phân tách chất hydrogen thuần túy từ các thành tố khác, người ta lại phải dùng một nguồn năng lượng khác… Trữ hydrogen cũng là một thách thức to lớn, độ đậm đặc của nó rất thấp nên phải có khoảng không gian lớn. Đó là lý do tại sao các loại xe chạy bằng nước lã và các trạm chỉ cung cấp hydrogen thật khó mà tìm ra.

Hiện nay thì các loại thùng bẵng hydrogen fuel đã được nhiều siêu thị bán nhằm cung cấp điện cho nhà ở và doanh nhiệp. Nhiều nơi đã tiến thật nhanh.

California có một kế hoạch gọi là “Hydrogen Highway” và nhiều tiểu bang khác cũng có sơ đồ tạo cơ cấu hạ tầng cho loại nhiên liệu “không khói’ này. Hãng Honda có xe chạy toàn bằng… nước lã với các giàn pin hydrogen, nhưng giá thành lên tới 200,000 đô la. Cái khó chính là làm sao tích chứa hydrogen cho an toàn trên xe, nhưng đây là dạng nhiên liệu hấp dẫn nhất vì Địa Cầu không bao giờ..thiếu nước!

http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=4524

Phương Pháp Chế Tạo Xà Phòng: Lịch Sử Và Phương Pháp Kỹ Thuật

Khoa Học: Phương Pháp Chế Tạo Xà Phòng: Lịch Sử Và Phương Pháp Kỹ Thuật
[18/01/2007 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]

(Colonial Soap Making. Its History and Techniques)

Chu Hữu Tín

Introduction: (Phần dẫn nhập:)

Tài liệu này sẽ cung cấp cho người quan tâm đến những phương pháp của cuộc sống người Mỹ sớm vài thông tin về xà phòng và phương pháp chế tạo xà phòng. Phương pháp chế tạo xà phòng là một kỹ năng trong gia đình thường bị bỏ quên trong phần thảo luận về những ngày dưới chế độ thuộc địa. Xà phòng có giá trị lớn trong việc giữ gìn nhà cửa một nơi tốt nhiều hơn để sống và làm việc.

Xưởng sản xuất xà phòng bởi những người thuộc địa gian khổ từ tro gỗ và mỡ thừa là bằng chứng về việc tự sản tự tiêu của người Mỹ sớm và sở hữu tài nguyên. Xà phòng, một mặt hàng dễ nhận của chúng ta, được tạo ra bởi việc đun sôi dung dịch kiềm tro gỗ và các loại mỡ với nhau. Lòng mong muốn và thu mua xà phòng đã viết những trang riêng của của nó trong lịch sử của người Mỹ sớm.

Xà phòng, đang dùng trong những năm khi nước Mỹ là một thuộc địa của Anh và sau đó một nước cộng hòa trẻ, được chế tạo từ bồ tạt hoặc bồ tạt tinh chế (pearlashes) . Loại xà phòng này có nền bồ tạt, thường chỉ là loại sản xuất từ lần khám phá đầu chế tạo xà phòng đến nửa đầu thế kỷ 19. Sau đó phương pháp LeBlanc nhận soda ăn da, một sodium có nền kiềm, từ một dung dịch mặn được thực hiện ở chừng mực công nghệ.

Trải qua nhiều thế kỷ, đã có những lúc khi người ta có thể chế tạo xà phòng bằng cách sử dụng một hình thức sodium kiềm như được thực hiện ngày nay, Người Ai Cập được nghĩ đã sử dụng trầm tích soda địa phương như nguồn kiềm của họ khi người Tây Ban Nha đã làm trong thế kỷ 8. Lại những người trong miền ven biển khác nhau đã đốt cỏ biển để tạo ra sodium có nền barillia trong chất kiềm của họ.

Những đến nay loại xà phòng thường nhất được chế tạo từ bồ tạt và bồ tạt tinh chế (pearlashe). Bồ tạt và bồ tạt tinh chế là những hình thức bồ tạt có nền kiềm hiện có trên cây trồng và vật liệu gỗ. Những loại xà phòng bồ tạt và bồ tạt tinh chế được dùng bởi mọi người từ những đế chế trị vì đến nông dân hoặc người thôn dã, những người làm xà phòng riêng từ các loại mỡ thừa và tro họ để dành.

Nhiều người đã làm xà phòng trải qua nhiều thế kỷ không có khái niệm về điều gì xuất hiện. Họ chỉ làm xà phòng bởi khảo nghiệm và sai số, bởi gặp may, và tin dị đoan làm cách nào chế tạo xà phòng. Khi người ta hiểu việc chế tạo xà phòng là phản ứng tạo ra xà phòng, tôi sẽ nói với bạn sau.

First soaps- (Xà phòng đầu)

Điều này chắc không thể dẫn chứng bằng tài liệu; những điều này là xà phòng có thể thực hiện có thể đã được khám phá ngay trong thời kỳ tiền sử. Những người sớm nấu thịt trên lửa có thể đã ghi chép sau một trận mưa bão có bọt kỳ lạ chung quanh những phần còn lại trên lửa và tro của nó. Chúng có thể đã được ghi chép khi nước được đặt trong một chậu đã dùng để nấu thịt và sau đó có tro trong đó, thường xuất hiện với việc nấu nướng ngoài trời, lại có loại bọt kỳ lạ này. Những người đàn bà này, có thể nhiều người đã giặt giũ, có thể cũng đã thấy chậu sạch nhiều hơn hoặc ít nhất sạch hơn bình thường.

Điều đã được ghi chép là Babylon đã làm xà phòng ước chừng 2800 năm trước C.N. và điều này đã được viết Phoeni ước chừng 600 năm trước C.N. Đây là những tài liệu tham khảo đầu về xà phòng và cách làm xà phòng trong việc sử dụng xà phòng giặt sạch sợi vải như len và bông vải trong việc chuẩn bị dệt thành vải.

The Romans and Celtics (Người La Mã và người Keltic)

Những bằng chứng đầu xác định và có thể chấp nhận về việc làm xà phòng được tìm thấy trong lịch sử của người La Mã cổ đại. Pliny, người nghiên cứu lịch sử La Mã, đã mô tả xà phòng đang được chế tạo từ mỡ (tallow) dê và ăn da tro len. Ông còn viết một muối thường được thêm vào để làm xà phòng cứng. Sự điêu tàn của Pompeii cho biết một xưởng làm xà phòng hoàn toàn với những thanh hoàn tất.

Trong khi người La Mã nổi tiếng về việc tắm công cộng, thường xà phòng không được dùng để vệ sinh cá nhân. Để làm sạch cơ thể người Hi Lạp và sau đó người La Mã có thể chà cơ thể với dầu ô-liu và cát. Một cái nạo (scraper), được goi là vật kỳ cọ (strigil), sau đó được dùng để làm sạch cát và dầu ô-liu và còn lấy đi chất dơ, mỡ, và tế bào chết từ da để cho da sạch. Sau đó da được kỳ cọ với sáp (salves) chế tạo từ cỏ.

Qua lịch sử người ta còn được biết tắm trong nước cỏ và những phụ gia vào môi trường tắm được nghĩ là có lợi. Điều đã được biết là Cleopatra, người quyến rũ những lãnh tu của Thế giới La Mã, có sắc đẹp là do tắm trong sữa lừa cái. Trong thế kỷ đầu của xà phòng kỷ nguyên chung được dùng bởi những bác sĩ trong việc điều trị bệnh. Galen, một bác sĩ thế kỷ 2, đã khuyến cáo việc tắm với xà phòng có thể là có lợi trong vài điều kiện da. Xà phòng trong việc vệ sinh cá nhân trở nên phổ biến trong những thế kỷ sau của kỷ nguyên người La Mã.

Người Keltic còn được nghĩ bởi nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã khám phá việc chế tạo xà phòng và sử dụng nó trong việc tắm rửa. Có thể là do viêc tiếp xúc tăng với người Keltic bởi người La Mã, sử dụng xà phòng trong việc vệ sinh cá nhân trở thành phổ biến.

Điều cũng quan trọng là để nhớ lại khi viết sử về những kiểu sinh hoạt không có xu hướng lớn và được phổ biến trên khắp thế giới thông qua thông tin đại chúng như là chúng ta có ngày nay. Việc sử dụng và hiểu biết về kỹ năng phổ biến và nghệ thuật có thể thay đổi từ một địa phương này sang địa phương khác. Khi họ bắt đầu sử dụng xà phòng trong khi tắm chung trong thế kỷ 3 sau C.N. trong nhiều thành phố chính, người dân trong những làng xã nhỏ có thể đang sử dụng dầu ô liu, cát, và phương pháp kỳ cọ. Người Keltic có thể đã rửa mặt mối ngày với xà phòng từ lâu trước khi người La Mã vượt qua dãy Alpes ở Ý. Ngày tháng có thể là đúng khi giải quyết những biến cố như chiến tranh, sinh đẻ và tử vong. Nhưng không sử dụng mỗi ngày. "Tình trạng nghệ thuật" thay đổi lệ thuộc vào thời gian và địa điểm.

Có một truyền thuyết thích thú chung quanh việc khám phá phương pháp chế tạo xà phòng. Truyền thuyết này phù hợp với việc khám phá xà phòng với người La Mã vì thế điều này phải là một truyền thuyết La Mã để đương đầu với người Keltic than phiền về việc làm xà phòng. Chắc là những người sáng tạo này khám phá việc làm xà phòng bởi những người đàn bà giặt quần áo dọc theo sông Tiber dưới chân đồi Sapo. Người đàn bà nhận thấy quần áo sạch hơn với ít cố gắng nhiều hơn ở nơi đặc biệt đó. Điều gì đã đang xảy ra? Tro và mỡ động vật từ những ngọn lửa cúng thần của đền miếu nằm trên đỉnh đồi Sapo cùng với nước mưa, làm ra xà phòng và chảy xuống sườn đồi thành những dòng chảy nước mưa cho những người đàn bà một ngày giặt giũ thuận lợi. Bạn có thể thấy qua việc xà phòng hóa, tên hóa học của phản ứng xà phòng hóa mang tên đồi trên ở La Mã từ lâu đời, làm cho một người đàn bà giặt giũ La Mã nói với một người đàn bà khác "Quần áo tôi giặt sạch nhiều hơn quần áo bạn".

The European Dark Ages (Thời đại u ám ở châu Âu)

Sau sự sụp đổ của đế chế La Mã ở Tây Âu, việc chế tạo xà phòng ít được thực hiện hoặc sử dụng nó ở thời đại u ám ở châu Âu. Trong đế quốc Byzantine, phần còn lại của thế giới La Mã ở miền Đông Địa Trung Hải, và trong việc mở rộng thế giới Ả Rập xà phòng được chế tạo và sử dụng. Ước chừng thế kỷ 8 việc làm xà phòng sống lại ở Ý và Tây Ban Nha. Trước thế kỷ 13, nước Pháp cũng cung cấp xà phòng cho thị trường châu Âu. Trong thế kỷ 14, việc làm xà phòng bắt đầu ở Anh.

Sau sự sụp đổ của đế chế La Mã ở Tây Âu, việc làm xà phòng ít được thực hiện hoặc sử dụng nó trong thời đại u ám ở châu Âu. Ở vương quốc Byzantine, phần còn lại của thế giới La Mã ở miền Tây Địa Trung Hải, và thế giới Ả Rập mở rộng xà phòng được chế tạo và sử dụng. Ước chừng thế kỷ 8 việc làm xà phòng được sống lại ở Ý và Tây Ban Nha. Ước chừng thế kỷ 13, nước Pháp cũng trở thành nước cung cấp xà phòng cho thị trường châu Âu. Trong thế kỷ 14, việc làm xà phòng được bắt đầu ở Anh. Các loại xà phòng sản xuất ở miền Nam châu Âu, Ý, Tây Ban Nha và những cảng Nam nước Pháp (xà phòng Marseille và Castle) được chế tạo từ dầu ô liu. Những loại xà phòng này sử dụng dầu ô liu có chất lượng cao so với xà phòng của nhà sản xuất người Anh và miền Bắc nước Pháp. Những nhà sản xuất xà phòng miền Bắc này, không thể nhận dầu ô liu, làm cho xà phòng của họ chỉ làm bằng mỡ động vật. Mỡ đông vật (tallow), mỡ lấy từ súc vật, là loại mỡ chính đã dùng. Những nhà sản xuất xà phòng Bắc Âu sử dụng phương pháp chế tạo xà phòng từ dầu cá. Xà phòng chế tạo từ mỡ động vật và dầu chất lượng kém, trong khi đủ cho việc giặt ủi và công nghệ dệt, không thể mong đợi trong việc tắm giặt. Xà phòng từ Nam Âu với dầu ô liu của họ có chất lương tốt nhiều hơn. Điều này đưa đến việc kinh doanh sinh động xuất khẩu xà phòng tốt từ Nam Âu.

Xin lỗi một phút bạn nói, người ta không tắm ở Thời đại Trung cổ. Nghĩa là một nhận thức sai phổ biến. Họ có tắm. Có những nhà tắm công cộng, gọi là stews (hầm), nơi mà những khách hàng quen tắm trong một bồn tắm bằng gỗ lớn và được đưa những cây xà phòng để dùng. Những nhà quý tộc và thương gia giàu có những nhà tắm riêng. Vào cuối thời đại trung cổ, khi tắm không còn là một đặc ân. Những nhà tắm công cộng bị đóng cửa vì giới chức thẩm quyền vào lúc đó nghĩ những nhà tắm này thúc đẩy sự lan tràn bệnh dịch. Nói chung, người ở thời kỳ Phục Hưng di chuyển khỏi quan niệm giữ cơ thể sạch. Họ thích phủ lên cơ thể với mùi hương thơm ngát. Tuy nhiên, xà phòng, vẫn còn là món bổ ích trong việc giặt giũ quần áo. Xà phòng vẫn còn được sử dụng trong việc vệ sinh cá nhân nhưng trước tiêu chuẩn của chúng ta ít thường xuyên nhiều hơn so với mức cần. Sự việc là xà phòng là một món có giá trị trong thế kỷ 17 và thế kỷ 18 dù cho quan niệm tắm không phổ biến được trình bày bởi những cố gắng của người khai hoang Tân Thế Giới dùng để tạo ra nó. Trong khi có thể việc tắm toàn thân không phải là thời trang giứ bạn sạch và môi trường xung quanh thì không sạch.

Soap in the American Colonies (Xà phòng trong những thuộc địa Mỹ)

Trước tiên những người khai hoang sớm giản đơn mang đầy đủ xà phòng cùng với họ. Talbot, một con tàu hợp đồng bởi Công Ty Massachusetts Bay chở người và vật phẩm từ Anh sang những thuộc địa ở Naumbeak nay được biết như là Salem và Boston, khai trong hàng hóa chở 2 thùng fikin xà phòng. Một fikin là một đơn vị đo lường cổ là một thùng gỗ, có đai dung lượng ước chừng 40 lít (9 gallons). John Winthrop, người đã trở thành vị Thống đốc đầu tiên của thuộc địa Massachsetts Bay, khi viết cho người vợ năm 1630 từ Boston gồm có xà phòng trong danh sách dụng cụ cần sẽ mang theo khi bà sang Tân Thế Giới.

Sau khi những người thực dân đã định cư và đã có thể sinh tồn trong những năm đầu gian khổt, họ nhận thấy nó thuận lợi nhiều hơn để tự làm xà phòng bằng cách sử dụng số lượng phong phú tro gỗ, một kết quả tự nhiên từ hoạt động gia đình. Cũng với nguồn cung cấp phong phú mỡ động vật từ công việc giết mổ thịt súc vật để tiêu dùng, những người thực dân có trong tay tất cả những thành phần chế tạo xà phòng. Họ không tin vào việc chờ đợi xà phòng gửi đến từ Anh và phung phí hàng hóa của họ và ít tiền trong kinh doanh xà phòng.

Xà phòng với vài công trình và cơ may có thể được thực hiện miễn phí. Việc làm xà phòng được thực hiện như một sự cố hàng năm hoặc nửa năm trong nhà cửa của người khai hoang đầu. Khi công việc giết mổ thịt động vật thực hiện trong mùa thu, xà phòng được tạo ra vào lúc đó trong nhiều nhà và trang trại trong việc sử dụng số lượng mỡ động vật lớn và mỡ lợn kết quả. Trong nhà và trang trại nơi giết mổ thịt không được thực hiện, xà phòng thường được thực hiện trong mùa xuân bằng cách sử dụng tro từ lửa đông và mỡ nấu dư thừa, đã tích tụ suốt năm.

The Chemistry of Soap (Hóa học của xà phòng)

Trước khi thảo luận qui trình chế tạo xà phòng chúng ta phải giải trình xà phòng là gì và phản ứng hóa học tạo ra xà phòng. Không, đây không phải là sách giáo khoa hóa học. Tuy nhiên, vài hiểu biết về hóa học liên quan, sẽ nâng cao câu chuyện về lịch sử của xà phòng.

Xà phòng, từ hóa học giản đơn nhất, là muối natri hoặc bồ tạt của acid béo. Hình như là giản đơn. Và đúng như vậy.

What is a salt? (Muối là gì)

Muối thường, như tất cả chúng ta biết là muối ăn, không chỉ là muối độc nhất trong thế giới hóa học. Có nhiều loại muối tất cả đang là kết quả của một acid và một alkali (chất kiềm) phản ứng lẫn nhau.

What is an acid or an alkali? (Điều gì là một acid hoặc một alkali)

Acids là những dung dịch có xu hướng làm bỏng hoặc gây đau đớn. Acids thay đổi từ acid yếu như acetic acid, thành phần chính trong dấm, đến hydrosulfuric acid, một acid cực mạnh và nguy hiểm trong bình điện của xe hơi.

Alkali còn được gọi là chất kiềm là những dung dịch ăn mòn hơn là gây bỏng. Chúng còn thay đổi từ yếu đến mạnh. Một ví dụ của alkali yếu là bicarbonate natri, soda làm bánh, dùng trọng việc chữa trị bệnh đau dạ dày do acid trong dạ dày quá mạnh. Một alkali mạnh là hydroxide natri, là thành phần chính trong lò hấp và máy hút khô. Hiện nay lò hấp và máy hút khô hoạt động bằng cách tạo ra phản ứng thật chúng ta đang thảo luận. Chúng qui đổi mỡ ngăn cản sự thoát nước hoặc làm bẩn xà phòng trong lò hấp vì thế bạn có thể làm tràn đầy hoặc quét sạch nó.

What is a fatty acid? (Điều gì là acid béo)

Nay chúng ta hãy trở lại những acids béo nay. Những acids béo được tìm thấy trong thực phẩm chúng ta gọi là mỡ và dầu. Hiện nay chúng ta nghe nhiều về acids béo, như chúng là những chất ảnh hưởng tính chất của mỡ và dầu chúng ta ăn và tác dụng những thực phẩm có trên sức khỏe của chúng ta.

Modern Soap (xà phòng mới)

Nhiều sản phẩm ngoài thị trường hiện nay không phải là xà phòng thật theo định nghĩa đúng mà đúng nhiều hơn là chất tẩy rửa đã được tạo ra từ những sản phẩm nền dầu hỏa. Những sản phẩm khác, được gọi là xà phòng chính chúng, có những thành phần tìm thấy trong thiên nhiên, nhưng những thành phần này đã bị thay đổi một cách triệt để bởi qui trình năng lượng cao. Xà phòng kết quả mang ít tính chất đồng nhất với xà phòng tạo ra về mặt lịch sử trải qua nhiều thời đại.

A Chemical Reaction (Một phản ứng hóa học)

Xà phòng không được tìm thấy trong thiên nhiên, nhưng nó có thể được tạo ra bởi những qui trình rất đơn giản. Theo phương pháp này nó tương tự như bánh mì, rượu vang, thủy tinh, phó mát, và đồ gốm, những món bổ ích khác tạo ra bởi người cổ xưa có thể là ngẫu nhiên lúc ban đầu sau đó thành đồ án.

Hiện tượng xà phòng hóa là một từ hóa học rất lớn trong phức chất những dễ tạo ra phản ứng xà phòng hóa. Hiện tượng xà phòng hóa là điều xuất hiện khi một acid béo gặp một alkali. Khi mỡ hoặc dầu, có acids béo được trộn với một alkali mạnh, alkali trước hết chia mỡ hoặc dầu ra thành hai phần chính: acid béo và glycerin. Sau khi chia mỡ hoặc dầu, phần natri hoặc bồ tạt của alkali kết hợp với phần acid béo của mỡ hoặc dầu. Sự phối hợp này sau đó là muối bồ tạt hoặc natri của acid béo. Như chúng tôi đã nói ở phần đầu. đây là xà phòng.

Soap Making Takes Three Basic Steps. (Xà phòng hóa: ba bước cơ bản)

* Tạo dung dịch kiềm tro gỗ
* Tạo hoặc rửa sạch mỡ
* Trộn chung dung dịch mỡ và dung dịch kiềm và đun sôi hỗn hợp để làm xà phòng.

First Let's Make The Lye (Tạo dung dịch kiềm)

Trong việc làm xà phòng thành phần đầu cần là một dung dịch nước của bồ tạt, được gọi là dung dịch kiềm (lye).

Dung dịch kiềm nhận được bằng cách đặt tro gỗ một bộ thùng phuy không đáy trên một phiến đá với một đường rãnh và một môi khắc trên đó. Đá đến lượt nằm trên một đống đá. Để ngăn cản tro đi vào dung dịch một lớp rơm rạ và những thỏi nhỏ được đặt trên thùng sau đó tro được đặt lên trên. Dung dịch kiềm được tạo ra bằng cách đổ chậm nước trên tro cho đến khi chất lỏng nâu nhạt nhỉ ra ngoài đáy thùng. Dung dịch này của dung dịch kiềm bồ tạt được hứng bằng cách cho phép nó chảy vào rãnh chung quanh phiến đá và nhỏ giọt xuống một bình đất sét ở miệng rãnh

Vài người đi khai hoang sử dụng một cái phễu tro để tạo ra dung dịch kiềm thay vì phương pháp thùng phuy. Cái phễu tro, được giữ lại trong trường hợp chảy tháo để bảo vệ khỏi bị rửa trôi không có ý định trước bởi một trận mưa rơi. Tro được thêm định kỳ và nước được đổ cách khoảng để đảm bảo cung cấp liên tục dung dịch kiềm. Dung dịch kiềm nhỏ giọt vào một chậu hứng nằm dưới phễu.

Now The Fats Are Prepared (Nay mỡ được sửa soạn)

Việc chuẩn bị mỡ heo hoặc mỡ bò để dùng trong việc tạo ra xà phòng là bước kế tiếp. Điều này gồm có làm sạch mỡ lợn hoặc mỡ bò mất đi những chất dơ có trong chúng,

Việc rửa sạch mỡ lợn được gọi là ´rendering" (loại bỏ mô thịt) và là bộ phận có mùi nặng nhất trong thao tác chế tạo xà phòng. Mỡ động vật, khi lấy ra khỏi động vật trong lúc giết mổ thịt, phải được "rendered" trước xà phòng có bất kỳ chất lượng thỏa đáng nào có thể thực hiện được từ nó. "Rendering" (loại bỏ mô thịt) này lấy đi tất cả những mô thịt còn lại trong phần mỡ. Mỡ nhận từ súc vật có tên là "tallow" (mỡ động vật) trong khi mỡ lợn nhận từ lợn gọi là "lard" (mỡ lợn).

Nếu xà phòng đang được thực hiện từ mỡ bò để dành từ lửa nấu nướng, cũng được "rendered" (lấy đi những mô thịt còn sót lại) để lấy đi chất dơ đã thu gom trong nó. Mỡ bò nấu thừa đang được để dành trong một thời gian không có lợi ích ướp lạnh thường trở nên ôi. Bước làm sạch này rất là quan trọng để làm cho mỡ bò thơm hơn. Điều này có thể đưa đến xà phòng thơm nhiều hơn. Xà phòng tạo ra từ mỡ lợn hoặc mỡ bò ôi có thể có tác dụng như mỡ thơm và sạch nhưng không vui vẻ gì có và dùng chúng.

Để tiến hành "render", mỡ lợn và mỡ nấu thừa được đặt trong một ấm đun nước lớn và một số lượng bằng nhau nước được thêm vào. Sau đó ấm đun nước được đặt trên lửa mở ngoài trời. Việc chế tạo xà phòng là một hoạt động ngoài trời. Mùi phát sinh từ "rendering" mỡ lợn rất nặng mùi trong việc mong đợi của bất kỳ nhà nào. Phức hợp mỡ và nước được đun sôi cho đến khi tất cả mỡ đã nóng chảy. Sau một thời gian dài đun sôi để đảm bảo việc hoàn tất nóng chảy mỡ. Lửa ngưng lại và trong ấm đun nước thêm một số lượng nước khác bằng nhau so với số lượng nước lần đầu. Dung dịch này được phép làm mát lại và để qua đêm. Ngày hôm sau mỡ rắn lại và nổi lên trên tạo ra một lớp mỡ sạch. Mọi chất dơ không sáng như mỡ còn lại trong nước dưới mỡ.

Bạn có thể quan sát điều này hôm nay trong bếp riêng của bạn. Khi một nồi hầm hoặc xoong có thịt đã được đặt tủ lạnh, bạn có thể thấy ngày hôm sau cùng một lớp mỡ người đi khai hoang có ở phần trên ấm đun nước "rendering".

Finally The Soap Making Can Begin (Cuối Việc chế tạo xà phòng có thể bắt đầu)

Trong một ấm đun nước lớn khác hoặc ấm mỡ được đặt với số lượng dung dịch kiềm xác định sẽ là số lượng đúng. Điều này nói dễ nhiều hơn so với thực hiện. Chúng ta sẽ thảo luận nó nhiều hơn sau này. Sau đó ấm được đặt trên lửa một lần nữa ngoài trời và đun sôi. Phức chất được đun sôi cho đến khi xà phòng được hình thành. Điều này được xác định khi phức chất đun sôi thành một khối lượng có bọt dầy, và một số lượng nhỏ đặt trên lưỡi gây ra cảm giác "cắn" có thể nhận thấy. Quá tình đun sôi này có thể sử dụng 6-8 giờ lệ thuộc vào số lượng phức chất và nồng độ của dung dịch kiềm.

Soft and Hard Soap (Xà phòng mềm và cứng)

Xà phòng làm bằng dung dịch kiềm tro len không tạo ra xà phòng cứng nhưng chỉ xà phòng mềm. Khi lửa được đặt ngoài và phức chất xà phòng được phép làm mát, ngày kế tiếp cho biết một jel màu nâu như chất cho cảm giác trơn khi tiếp xúc, hình thành bọt khi trộn chung trong nước, và làm sạch. Đây là loại xà phòng mềm những người đi khai hoang đã thực hiện hết sức mình để sản xuất. Xà phòng mềm sau đó đổ vào một thùng phuy bằng gỗ và múc ra bằng môi gỗ khi cần.

Đê làm xà phòng cứng, muối thường được ném vào cuối giai đoạn đun sôi. Nếu điều này được thực hiện một bánh xà phòng cứng hình thành trong một lớp phía trên ấm. Khi muối thường đắt tiền và khó kiếm, điều không thường phí phạm để làm xà phòng cứng. Muối thường có giá trị nhiều hơn để cho gia súc và bảo quản lương thực. Xà phòng mềm có tác dụng cũng như xà phòng cứng và vì những lý do này những người đi khai hoang, chế tạo xà phòng riêng của họ, không tạo ra những thanh xà phòng cứng.

Ở những thị xã và thành phố nơi có nhiều nhà sản xuất xà phòng chế tạo xà phòng để bán, xà phòng có thể được qui đổi thành xà phòng cứng bằng cách thêm muối. Khi những thanh cứng nó có thể tồn trữ và vận chuyển dễ nhiều hơn. Những thanh xà phòng cứng tạo ra bởi những nhà sản xuất xà phòng thường có hương thơm bới dầu như dầu oải hương (lavender), xanh đông (wintergreen) , và carum (caraway) và được bán như xà phòng tắm cho những người sống ở thành phố hoặc thị xã.

Xà phòng cứng không cắt thành thanh nhỏ và bọc như xà phòng được bán hiện nay. Xà phòng do những người sản xuất xà phòng chế tạo được đổ vào những khuôn gỗ lớn và lấy ra khi mát lại và cứng.

Số lượng xà phòng một người khách hàng muốn được cắt từ những thanh lớn. Xà phòng thường được bán bằng cân anh (pound). Những cục gói nhỏ không thể sử dụng cho đến giữa thế kỷ 19.

Những cục xà phòng khác nghĩ cần nhớ là phương pháp chế tạo xà phòng mô tả không những làm cách nào những người đàn bà đi khai hoang nội trợ làm xà phòng của họ. Việc chế tạo xà phòng thường là một nhiệm vụ người đàn bà thi hành. Đây chủ yếu là phương pháp dùng bởi nhà sản xuất xà phòng thời gian đó. Việc sản xuất xà phòng luôn được coi như một trong những công việc khó nhất trong trang trại hoặc trong gia đình.

Difficulties in Making Soap (Những khó khăn trong sản xuất xà phòng)

Phần cứng nhất là trong việc xác định nếu dung dịch kiềm có nồng độ đúng, như chúng ta đã nói. Để quán triệt điều này, nhà sản xuất xà phòng làm nổi một củ khoai tây hoặc một quả trứng trong dung dịch kiềm. Nếu vật thể này nổi với số lượng đặc biệt bề mặt trên dung dịch kiềm, dung dịch kiềm được tuyên bố thích hợp để chế tạo xà phòng. Nhiều người đi khai hoang có cảm giác là dung dịch kiềm có nồng độ dúng có thể làm nổi một củ khoai tây hoặc một quả trứng có một diện tích kích thước của một ninepence (ước chừng kích thước của một phần tư mới) trên bề mặt. Để làm cho một dung dịch kiềm yếu thành mạnh nhiều hơn, dung dịch có thể có thể được đun sôi thêm hoặc dung dịch kiềm có thể được đổ vào một mẻ tro mới. Để làm một dung dịch yếu nhiều hơn, nước được thêm vào.

Những khó khăn trong việc tạo ra xà phòng những người đi khai hoang gánh chịu phát sinh từ việc thiếu hiểu biết về qui trình hóa học liên quan và không khả năng nhận dung dịch kiềm có nồng độ đã biết và có thể lệ thuộc. Có nhiều mê tín mà người đi khai hoang tin tạo ra thành công hoặc thất bại. Để làm xà phòng, thủy triều và những giai đoạn mặt trăng trong số những sự việc khác được giải trình. Phương pháp Dutch ở Pennsylvania cảnh báo một cách cẩn thận là cây gậy "sassafrasas" chỉ là một kiểu công cụ thích hợp với việc quậy xà phòng và việc quậy luôn phải thực hiện theo cùng hướng.

Thời đại thuộc địa sau này, khi việc kinh doanh xà phòng đã được xác lập tốt trong những thành phố và thị xã , nhiều trong những việc kinh doanh này người ta đã trở thành những nhà quan sát tinh khôn của qui trình và có thể tạo ra xà phòng của mình có chất lượng cao lệ thuộc. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình, nhất là ở những vùng nông thôn, tạo ra xà phòng bồ tạt riêng của họ cho đến giữa thế kỷ 19. Lúc đó những khó khăn và văn hoá dân gian vẫn hiện có xung quanh qui trình làm xà phòng.

Từ cuốn nhật ký của Elizabeth Ranch Norton, người cháu gái của Tổng thống John Adams, đã viết trong năm 1799, chúng tôi biết việc tạo ra xà phòng có thể là một công việc gây bực tức biết bao! Trong một dịp khác, Bà Norton đã làm ba mẻ xà phòng trước khi bà có thể làm một thùng phuy xà phòng thích hợp với yêu cầu của gia đình bà.

Not Always Done Down On The Farm (Không luôn được thực hiện trong trang trại)

Việc làm xà phòng như là một công việc kinh doanh đã phát triển tỷ lệ thuận với việc phát triển thuộc địa. Ngay trong những ngày rất sớm có những thương gia làm và bán xà phòng, người gọi là "soapboilers" (người đun sôi xà phòng). Từ khi mỡ động vật là thành phần chính trong xà phòng và nến (đèn cầy), nhiều thương gia là nhà cung cấp cả hai loại. Những nhà kinh doanh này gọi là "chandlers" (người bán nến). Người đun sôi xà phòng đầu đã đến với việc giải quyết Jamestown năm 1609.

Ở New England cũng vậy, chúng tôi thấy những dấu hiệu kinh doanh xà phòng. Christopher Gipson, người đã đến Dorchester, Massachusetts năm 1630, và về sau năm 1649 đã được chọn làm Giám định viên Xa lộ của thị trấn Boston, là một sapboiler. Điều lô gích để kết luận là diều chắc cần sau đó như một nguồn tiền bạc và ảnh hưởng để dấn thân vào chính trị việc kinh doanh xà phòng của ông Gipson tạo cho ông một cuộc sống sung túc.

Potash and Pearlash Trade (Kinh doanh bồ tạt và Pearlash)

Việc chế tạo xà phòng và nhà máy bồ tạt và pearlashes là những kinh doanh liên quan mật thiết của America thuộc địa, Pearlash, bồ tạt tinh chế, vì công dụng công nghệ của nó, là một món đồ quan trọng xuất khẩu trong thuộc địa. Bồ tạt tinh chế, thêm vào xà phòng, được sử dụng trong việc chế tạo thuỷ tinh trong những thuộc địa và ở châu Âu.

Bồ tạt và sau này bồ tạt tinh chế là những món hàng có giá trị kinh doanh xuất khẩu sang Anh đang là một trong số ít món hàng tạo ra bởi thuộc địa America có thể được kinh doanh trực tiếp sang Anh để lấy tiền mặt. Nhiều món hàng khác của xuất khẩu thuộc địa được kinh doanh sang những thuộc địa khác của Anh ở Tây Ấn trong một món hàng thứ hai có giá trị lớn sau đó có thể kinh doanh trong một món hàng mong đợi từ chính nước Anh. Điều này được gọi như là hệ thống kinh doanh tam giác của kỷ nguyên thuộc địa. Bồ tạt tinh chế là một món hàng có giá trị nói trên đối với nền kinh tế mà Chính phủ Anh khi áp đặt sự lệ thuộc tài chính thuộc địa vào nước Anh đã liệt kê bồ tạt tinh chế như một mặt hàng liệt kê. Theo luật hàng hoa liệt kê không thể xuất khẩu bởi thuộc địa Mỹ sang những cảng ngoài vương quốc Anh.

Có những tài liệu tham khảo khác để hỗ trợ tầm quan trọng của bồ tạt và bồ tạt tinh chế với nền kinh tế. Thống đốc bang Massasuchetts năm 1765 được ghi lại đã tuyên bố dự án kinh doanh tốt nhất trong những thuộc địa là việc sản xuất bồ tạt và cây gai dầu (hemp), và việc vận chuyển gỗ sang Anh. Năm 1755 Massasuchetts General Court đã nhận biết tầm quan trọng của những mặt hàng này bằng cách xác lập một bộ luật trong việc phân tích và tiêu chuẩn hoá bồ tạt và bồ tạt tinh chế.

Nước Mỹ trẻ cũng hiểu rõ giá trị của việc sản xuất bồ tạt và bồ tạt tinh chế. Bằng sáng chế đầu cấp bởi USPO (United States Patent Office) cấp cho Samuel Hopkins trong phương pháp điều chế bồ tạt tinh chế.

Bồ tạt là chất tồn lưu còn lại sau khi tất cả nước đã rút khỏi khỏi dung dịch kiềm nhận từ việc lọc qua tro len. Bồ tạt tinh chế sau đó chế tạo từ bồ tạt bằng cách nướng nó trong một lò cho đến khi chất dơ cacbon cháy hết. Bột trắng mịn còn lại là bồ tạt tinh chế.

Người bán rong có thể đi lại từ làng này qua làng khác thu gom bồ tạt chế tạo trong những trang trại và hộ gia đình. Trong nhiều hộ gia đình tiền mặt duy nhất họ nhận toàn năm có thể là để bán tro gỗ hoặc bồ tạt của họ. Sau đó người bán rong có thể bán bồ tạt cho những nhà sản xuất người qui đổi nó thành bồ tạt tinh chế trong xưởng của họ được biết như là "ashes". Thời gian xa xưa nhiều nhà sản xuất bồ tạt tinh chế mang gỗ riêng của họ và làm thành nguồn cung cấp bồ tạt riêng. Trong những xưởng ngoài lò trong việc qui đổi bồ tạt thành bồ tạt tinh chế, có một cấu trúc gọi là ashery (lò tro) trong việc đốt những số lượng lớn gỗ. Những cấu trúc nhỏ này được chế tạo bằng đá gồm có một mái có một lỗ trong đó. Có hai miệng. Một ở giữa một bên trong việc thêm gỗ vào lửa và miệng khác ở đáy trong việc rửa sạch tro. Cấu trúc được ưa thích việc đốt ngoài trời để tạo ra tro có hàm lượng alkali cao.

Giữa thế kỷ 18, nhiều "lò tro" rải rác ở miền quê. Ít nhất có hai "lò tro" nằm ở Newport, Rhode Island. Ở Massasuchetts có vài thị trấn có điểm gọi là "lò tro". Hai trong những thị trấn này là Haverhill và Charlestown. Từ tài liệu "A typographical and Historical Description of Boston" (Mô tả địa hình và lịch sử Boston) viết năm 1794, chúng ta biết là có nhiều nhà máy sản xuất bồ tạt và bồ tạt tinh chế ở Boston và được xác lập ở đó ước chừng 40 năm trước cuộc Cách Mạng.

The End of an Era (Giai đoạn cuối của một kỷ nguyên)

Khi gỗ trở nên hiếm nhiều hơn khi thủy triều vận động ở phía Tây trườn tới New England vào cuối thế kỷ thứ 18, việc sản xuất bồ tạt và bồ tạt tinh chế là một công nghệ đang giảm sút. Điều này vẫn còn là một công nghệ quan trọng ở biên giới Mỹ cho đến cuối phần ba đầu của thế kỷ 19. Tất cả trong giai đoạn này bồ tạt tinh chế vẫn là một mặt hàng chính của xuất khẩu Mỹ. Khi soda ăn da có thể nhận rẻ tiền và dễ nhiều hơn từ nước muối bằng cách sử dụng qui trình LeBlanc, yêu cầu về bồ tạt và bồ tạt tinh chế Mỹ bắt đầu suy giảm cho đến khi nó không còn nữa.

Tính có thể sử dụng sodium hydroxide, đây là điều gì qui trình LeBlanc tạo ra, làm thay đổi công nghệ chế tạo xà phòng một cách bi thảm. Sodium alkalis tạo ra xà phòng cứng mà không thêm muối thường để ảnh hưởng đến sự thay đổi. Những xà phòng cứng này có chất lượng rắn nhiều hơn. Ưu thế lớn khác là alkali cần cho việc làm ra xà phòng không còn cần nữa cần nhiệm vụ gay go chặt cây hàng mẫu anh (acres), đốt củi, lọc sạch tro, thoát hơi nước từ dung dịch kiềm tro gỗ, và cuối cùng đốt hết tất cả những xhất dơ trong một lò.

Toàn dịch vụ làm ra xà phòng trở thành dễ nhiều hơn và vì thế xà phòng có thể sử dụng nhiều hơn cho nhiều người. Kết quả tự nhiên khiến càng ngày càng nhiều người sử dụng xà phòng, nhất là xà phòng tắm. Tập quán tắm trở lại thành thời trang và việc tiêu dùng xà phòng tăng lên rất nhiều trong thế kỷ thứ 19. Xà phòng thuộc về thời đại Victorian và việc làm ra xà phòng chuyển từ nghề thủ công và điều bí ẩn thành một công nghệ phát triển hoàn toàn.

Với việc cho thuê công nghệ bồ tạt đã kết thúc việc sản xuất xà phòng bồ tạt và bồ tạt tinh chế. Xà phòng của soapboiler gồm có trong số lượng Josiah Franklin, cha đẻ của Benjamin Franklin. Xà phòng được dùng bởi tất cả những người đàn bà nổi tiếng của tiền sử Mỹ từ Priscilla Mulliens đến Dolly Madison.

Giữa thế kỷ 16 khi xà phòng bồ tạt tinh chế đang ở trong tình trạng cực thịnh của nó, quảng cáo như dưới đây từ tờ báo Boston Gazette rất dồi dào.

"TO BE SOLD BY EDWARD LANGDON, IN FLEET STREET, NEAR THE OLD NORTH MEETING HOUSE, A QUANTITY OF HARD SOAP BY THE BOX, SOFT SOAP BY THE BARREL". (Sẽ được bán bởi EDWARD LANGDON, đường FLEET, gần Nhà Hội Bắc cũ, một số lượng xà phòng cứng theo hộp, xà phòng mềm theo thùng phuy"

THƯ TỊCH

A Book of Country Things, Barrows Mussey Stephen Greene Press, 1965

A Long, Deep Furrow, Howard S. Russell University Press of New England 1982

Colonial Craftsmen, Edwin Tunis The World Publishing Company, 1965

Colonial Days and Ways, Helen Evertson Smith The Century Company, 1900

Every Day Life in the Massachusetts Bay Colony, George Frances Dow

Home Life in Colonial Days, Alice Morse Earle The MacMillan Company‚ 1899

Over the Counter and on the Shelf, Laurence A. Johnson Charles E. Tuttle Comapny Publishers 1961

Professional and Industrial History of Suffolk County, The Boston History Company

The Arts and Crafts in New England, Da Carpo Press 1967

The Seasons of America's Past, Eric Sloane Wilfred Funk, Inc.

For further reading

Making Soaps and Candles, Phyllis Hobson Storey Communications, Inc. 1973

Soap, Ann Bramson Workman Publishing Company 1975

The Art of Soap Making, Merilyn Mohr Camden House Publishing 1979


Về tác giả

Sách nhỏ này được soạn thảo bởi The Soap Factory, một công ty xà phòng nhỏ tận tâm sản xuất xà phòng Castile sử dụng phương pháp truyền thống của thế kỷ 19.

Maria Ellis, sở hữu chủ và Giám Đốc Nhà máy Xà phòng, đã nghiên cứu phương pháp kỹ thuật chế tạo xà phòng và lịch sử chế tạo xà phòng trong trên 30 năm. Lúc đầu Bà liên quan việc chế tạo xà phòng như một thành viên VITA (Volunteers in International Technical Assistance=Tì nh nguyện viên Viện trợ Kỹ thuật Quốc tế). Bà vẫn làm việc với VITA bằng cách cung cấp những người trong nước đang phát triển với thông tin về việc chế tạo xà phòng.

Marietta và chồng, Arthur Ellis, bán xà phòng của họ trong cửa hàng thủ công, và thông qua thư phiếu đặt hàng. Xà phòng của họ cũng còn để bán trong vài cửa hàng bán sỉ.

Gia đình Ellise đều là thành phần của SWEAT (Society of Workers in Early Arts and Trades=Hội người lao động nghệ thuật và kinh doanh sớm) có thể đọc hoặc trình diễn về việc chế tạo xà phòng và lịch sử của nó.
http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=5684